Khoáng được chia làm 2 loại: 7
khoáng đa lượng bao gồm Canxi (Ca), Chloride (Cl), Magie (Mg), Phốt-pho (P),
Kali (K) và Lưu huỳnh (S). 16 khoáng vi lượng bao gồm nhôm (Al), Arsen (As),
Cô-ban (Co), Chrom (Cr), đồng (Cu), Flo (F), Iod (I), Sắt (Fe), Man-gan (Mn),
Molybden (Mo), Se-len (Se), Silic (Si), Ni-ken (Ni), thiếc (Sn), Va-na-di (V),
Kẽm (Zn). 6 loại khoáng được xem là thiết yếu đối với tôm là Ca, Cu, Mg, P, K,
Se, Zn.
Đối với thủy sản khoáng chất góp phần hình thành bộ xương ngoài, cân
bằng áp suất thẩm thấu. Khoáng là thành phần cấu trúc của các mô, truyền xung
động thần kinh và co cơ. Khoáng chất đóng vai trò như thành phần thiết yếu cho
các enzyme, vitamin, kích thích tố (hormone), sắc tố, yếu tố đồng vận
chuyển trong quá trình chuyển hóa, chất xúc tác, và hoạt hoá enzym.
Đối với tôm, lớp vỏ cutin của
tôm được hình thành chủ yếu từ CaCO3, với một lượng ít Mg, P và S.
Tôm có thể hấp thu khoáng trực tiếp từ môi trường nước thông qua uống và hấp
thụ qua mang. Do đó, sử dụng khoáng trực tiếp vào trong nước để bù vào lượng
khoáng bị mất đi trong quá trình lột xác của tôm là rất cần thiết. Việc bổ sung
khoáng chất vào thức ăn phụ thuộc vào khả năng hữu dụng sinh học của những loại
khoáng này ở môi trường nước. Nghĩa là nếu khoáng dồi dào trong môi trường nước
thì việc bổ sung vào khẩu phần ăn là không có ý nghĩa. Tuy nhiên, nếu tôm sống
trong môi trường nước có độ mặn cao, nhu cầu về Ca2+, K+ và
Mg2+ một phần được đáp ứng. Tuy nhiên, nếu tôm sống trong môi
trường có độ mặn ~4‰ thì việc bổ sung 5-10 mgK+/L và 10-20 mgMg2+/L
để bảo đảm tôm tăng trưởng bình thường và tỉ lệ sống cao. Trong nước nuôi tôm,
tỉ lệ Na:K phải đạt 28:1, và Mg:Ca là 3,1:1
Các loài thủy
sản có thể hấp thụ hoặc bài tiết khoáng chất trực tiếp từ môi trường nước
qua mang và bề mặt cơ thể, hoặc thông bổ sung vào thức ăn, và thay đổi theo
sự điều hòa áp suất thẩm thấu và muối. Vì vậy, yêu cầu khoáng chất
trong chế độ ăn phần lớn phụ thuộc vào nồng độ khoáng chất trong môi trường
nước nuôi tôm.
Khi nuôi ở nồng độ muối thấp,
có sự chênh lệch giữa áp suất thẩm thấu trong cơ thể và môi trường ngoài, kết
quả là tôm sẽ lấy nước tự động thông qua mang và ruột. Tôm sẽ khó khăn hơn
trong việc lấy muối khoáng hòa tan trong nuôi trường nước vì vậy khoáng phải
được bổ sung trực tiếp trong khẩu phần ăn. Môi trường ngoài có thể đáp ứng đủ
Na+ và Cl- của tôm. Trong khi đó, K+ thường
thiếu hụt và cần cân đối khi nuôi tôm ở độ mặn thấp. Theo nhu cầu về hàm lượng
K+ thì việc bổ sung khoảng 1% trong khẩu phần là đủ. Tuy vậy,
ảnh hưởng của K+ còn chưa rõ ràng và ít được quan tâm trong quá
trình nuôi.
Tôm được nuôi trong môi trường
nước có độ mặn cao thì không cần bổ sung Ca. Trong thức ăn tôm thẻ, lượng P cần
bổ sung dao động từ 1-2%. Ca có thể ảnh hưởng đến sự hữu dụng của P do đó tỉ lệ
Ca trong khẩu phần không nên vượt quá 2,5%. Trong nước biển thường tồn tại rất
cao hàm lượng Mg (~1.350 mg/L), vì vậy hàm lượng Mg thường được bài tiết đối với
tôm thẻ, kết quả là hàm lượng Mg trong máu luôn thấp hơn môi trường ngoài. Do
đó, tôm thẻ chân trắng có thể không cần yêu cầu bổ sung thêm Mg vào thức ăn.
Mặt khác, những nguyên liệu phối trộn trong khẩu phần thức ăn tôm rất giàu Mg,
do đó không cần thiết phải bổ sung Mg vào thức ăn tôm. Na+, Cl-,
K+, Ca2+ và Mg2+ thường tôm có thể
nhận từ nước, đáp ứng phần nào nhu cầu sinh lý của tôm. Riêng PO43- và
SO42- thì phải bổ sung thông qua con đường thức ăn.
Tổng hợp bởi kiemtranuoc.com
Xem thêm: Test Kit Canxi/Magie
0 nhận xét:
Đăng nhận xét